dovanphuong

Japan

 1. Điều JkJiện tự nhiên

Nhật Bản là một quần đảo với trên 3.000 đảo được tạo thành từ các ngọn núi cao nổi lên từ một dãy núi nằm sâu dưới biển Thái Bình Dương, phía ngoài lục địa châu Á. Toàn bộ diện tích của Nhật Bản là 377.829 km2, tương đương với diện tích của Đức, Phần Lan hay Việt Nam. Honshu là đảo lớn nhất, chiếm 61% diện tích lãnh thổ quốc gia. Đảo lớn thứ hai là Hokkaido, thứ ba là Kyushu, thứ tư là Shikoku và thứ năm là Okinawa. Khoảng 80% diện tích Nhật Bản là vùng núi trong khi các vùng bình nguyên thường nhỏ và hẹp. Các cánh đồng được canh tác chiếm 12,3%, diện tích đất trồng cây ăn quả chiếm 1,1% và đất trồng cỏ chiếm 0,2% diện tích quốc gia. Ngược lại, rừng bao phủ tới 66,5% tổng diện tích đất.

Bờ biển Nhật Bản rất đa dạng và lồi lõm rõ rệt với vô số vịnh và bán đảo, nhưng cũng có những bãi biển dài hàng chục kilômét. Các dòng biển lạnh chảy xuống từ hướng Bắc gặp các dòng biển nóng chảy ngược lên từ phía Nam tại các vùng biển quanh quần đảo Nhật Bản, tạo thành vùng nước hoà trộn giữa các dòng biển. Tại khu vực dòng xoáy này, các chất phù sa không lắng xuống đáy đại dương, các loài sinh vật phù du phát triển và cá nhỏ sinh sôi tạo môi trường lý tưởng cho các loài cá sống ở cả các vùng nước lạnh và nước nóng. Một số loài chính bao gồm cá ngừ, cá thu, mực, cá mòi, cá cốc, cá trích và cá hồi. Sự đa dạng của các loài hải sản nước lạnh và nước nóng là một điều lý giải cho việc Nhật Bản là một trong những nước đánh bắt cá lớn nhất trên thế giới.
 

 

2. Con người

 

Một đặc điểm của người Nhật là mức độ thuần nhất cao của họ, nếu không kể thiểu số người Ainu hiện nay còn khoảng 18.000 người sống ở Hokkaido và Sakhalin thì tất cả người Nhật đều thuộc về cùng một chủng tộc và chỉ nói một ngôn ngữ. Một phần vì vậy mà tính cách của người Nhật Bản mang sắc thái khá rõ ràng và đồng nhất.



Tính hiếu kỳ và nhạy cảm với văn hóa nước ngoài

Chúng ta có thể nói rằng không có dân tộc nào nhạy bén về văn hoá của nước ngoài như người Nhật. Họ không ngừng theo dõi những biến động tình hình bên ngoài, đánh giá và cân nhắc những ảnh hưởng của các trào lưu và xu hướng chính đang diễn ra đối với Nhật, và nếu như họ phát hiện ra trào lưu nào đang thắng thế thì họ có xu hướng sẵn sàng học hỏi, nghiên cứu để bắt kịp trào lưu đó. Và chính tinh thần thực dụng, tính hiếu kỳ và óc cầu tiến của người Nhật là những động lực thúc đẩy họ bắt kịp với các nước tiên tiến. Họ không đặt vấn đề phê phán hay chọn lọc khi học mà bằng mọi cách học cho hết. Sau đó họ mới nghiền ngẫm tìm ra những yếu tố có thể cải biến. Đến đây họ lại phát huy được thế mạnh của óc quan sát tỉ mỉ và sự tinh tế vốn có của văn hoá dân tộc.
Mặc dù rất nhạy cảm đối với văn hoá nước ngoài, song người Nhật rất ý thức về tài sản văn hoá của họ. Tư liệu lịch sử văn hoá, đền đài, chùa chiền… đại bộ phận vẫn còn được bảo tồn cho đến ngày nay. Hơn thế, các ngành nghề truyền thống không những không bị mai một đi mà còn được cải tiến kỹ thuật và càng trở nên tinh tế hơn.

Ý thức tập thể

Tập thể đóng một vai trò quan trọng đối với người Nhật. Nó được thể hiện ngay từ trong cách xưng hô với người ngoài khi nói chuyện. Trong công việc người Nhật thường gạt cái tôi lại để đề cao cái chung, tìm sự hòa hợp giữa mình và những người xung quanh. Các tập thể có thể cạnh tranh với nhau rất gay gắt song cũng có lúc họ lại bắt tay với nhau để có thể đạt được mục đích chung như để đánh bại đối thủ nước ngoài. Vì vậy mà điều tối kỵ là làm mất danh dự của tập thể. Một học giả nước ngoài nghiên cứu về Nhật Bản đã đối lập “văn hóa hổ thẹn” của người Nhật với “văn hoá tội lỗi” của phương Tây.

Tôn trọng thứ bậc và địa vị

Ý thức tôn trọng thứ bậc có lẽ đã có từ lâu trong đời sống của người Nhật. Thái độ nhún mình trước những người có địa vị, quyền chức cũng có ở một số nước khác thời cận đại nhưng đặc biệt ở Nhật cho đến ngày nay vẫn còn đậm nét. Tập quán này được nhấn mạnh trong hơn 250 năm dưới thời Tokugawa. Ngày nay ý thức tôn trọng thứ bậc vẫn được thể hiện trong đời sống hàng ngày. Ví dụ trong phòng họp, người có chức vụ thấp nhất sẽ ngồi gần cửa ra vào, người có chức vụ càng cao thì càng ngồi gần phía bên trong. Hoặc trong các buổi tiệc tổ chức tại nhà hàng một cách đột xuất thì mọi người đều biết vị trí của mình mà không cần có sự hướng dẫn nào khác. Sắc thái tôn ti trật tự trong xã hội Nhật Bản thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ xưng hô và hình thức chào hỏi đối với từng đối tượng xã hội cụ thể. Đối với người lớn tuổi hay người có địa vị thì phải dùng ngôn ngữ kính trọng (sonkeigo), khi nói về mình và những người trong gia đình mình thì dùng ngôn ngữ khiêm nhường (kenjogo).

Chính từ cơ cấu này mà tinh thần đoàn kết và lòng trung thành của người Nhật được phát sinh, và nhờ đó mà việc động viên cho sự thực hiện mục tiêu của toàn thể tập đoàn là tương đối dễ dàng.

Óc thẩm mỹ

Ấn tượng ban đầu của bất kỳ ai lần đầu đến thăm Nhật Bản là ngạc nhiên và thán phục về óc thẩm mỹ của người Nhật, từ cách trang trí nhà cửa sắp, xếp đồ đạc trong gia đình hay cách bài trí bữa cơm đều khiến cho mọi người có cảm giác tiếp cận một sự tinh tế, một óc thẩm mỹ cao. Nhưng óc thẩm mỹ của người Nhật không chỉ biểu hiện qua các hiện tượng bên ngoài mà còn qua lối suy nghĩ và cung cách làm việc của họ hàng ngày, hay nói rộng ra là nhân sinh quan của họ. Một người đan quạt tre ngắm đi ngắm lại xem cái quạt của mình làm đã cân đối chưa, có cần phải chau chuốt gì không, mặc dù khi làm như vậy thì anh ta sẽ mất nhiều thời gian hơn, đồng nghĩa với việc lợi nhuận thu về được ít hơn, song đối với người dân Nhật Bản ngoài mục đích lợi nhuận thì họ còn muốn đạt được một mục tiêu khác không kém phần quan trọng - đó là cảm giác thoải mái khi hoàn thành mỹ mãn một công việc dù là rất nhỏ. Họ luôn tìm kiếm cái đẹp trong công việc của mình, người Nhật nổi tiếng là người làm việc cần mẫn, xem công việc của công ty như là công việc của mình, luôn tận tâm tận sức, nhiều khi họ làm việc không phải vì lợi ích cá nhân của mình, họ xem công việc của họ không những là “hoạt động kinh tế” mà còn là “hoạt động thẩm mỹ”.

                                                                                                                    
Về đầu trang

3. Lịch sử Nhật Bản qua các thời kì

Thời Tiền đồ đất nung (Thời đại đồ đá cũ): 15000 năm đến 5000 năm TCN
Sống du mục săn bắt và hái lượm

Thời đồ gốm Jomon: 5000 năm đến 200 năm TCN

Thời đồ gốm Yayoi: 200 năm TCN đến năm 200
Chuyển sang trồng lúa và hình thành việc định cư. Phát triển các vương quốc độc lập nhỏ. Vào cuối thời kì, có xu hướng đi đến thống nhất.

Thời văn hoá Kofun: Cuối thế kỷ III đến cuối thế kỷ VI
Vương quốc Yamato thiết lập sự thống trị trên quá nửa phía Tây quần đảo Nhật Bản, kể cả phía Nam của Triều Tiên. Sau này, việc kiểm soát phía Nam Triều Tiên bị suy yếu, và sự tranh ngôi trong gia đình Nhật hoàng đã đe doạ quyền lực của Yamato. Đạo Phật và đạo Khổng được du nhập.

Thời Asuka: Cuối thế kỷ VI đến đầu thế kỷ VIII
Hoàng tử Shotoku phục hồi quyền lực của vương quốc Yamato. Các cố gắng đầu tiên để tạo nên hiến pháp và một hệ thống giai cấp chính thức. Shotoku quảng bá cho đạo Phật. Một số chùa Phật giáo được xây dựng. Gia đình Soga trở nên rất có quyền lực, tuy nhiên sau này đã bị Fujiwara-no-Kamatari dưới quyền hoàng tử Naka-no-Oe lật đổ. Cải cách Taika theo những ý tưởng trước đây của hoàng tử Shotoku. Chấm dứt sự cai trị của người Nhật Bản ở Triều Tiên. Tinh thần của cải cách Taika được thể hiện trong bộ luật gọi là Ritsuryo dưới thời Temmu, sau này được cải tiến dưới thời Mommu, cháu nội của ông ta.

Thời Nara: Đầu thế kỷ VIII đến cuối thế kỷ VIII
Nara trở thành thủ đô, bộ luật Ritsuryo được hoàn thành. Nhật hoàng có uy quyền lớn. Văn hoá thời nhà Đường của người Trung Hoa được du nhập vào. Đạo Phật hưng thịnh. Hai cuốn lịch sử dân tộc Kojiki và Nihon Shoki cũng như Man’yoshu, một tuyển tập các bài thơ Nhật Bản, được biên soạn. Nền văn hoá đạt tới mức cao nhờ việc trộn lẫn các yếu tố Trung Hoa và Nhật Bản. Đúc được các đồng tiền bằng bạc và đồng đỏ. Một số chùa gỗ trong đó có chùa Todaji và kho báu hoàng gia Shosoin được xây dựng.

Thời Heian

Đầu Heian: Cuối thế kỷ VIII đến cuối thế kỷ IX
Nhà nước chuyển tới thủ đô mới Heian-Kyo (Kyoto). Thành lập các giáo phái Phật giáo mới đã Nhật Bản hoá (là Tendai và Shingon - chủ yếu hội nhập những yếu tố tiến bộ). Hệ thống các điều luật Ritsuryo được sửa đổi. Lối viết thơ văn theo kiểu Trung Hoa rất hưng thịnh ở triều đình. Dòng họ Fujiwara nắm quyền hành đằng sau ngai vàng.

Giữa Heian: Cuối thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI
Với sự gia tăng quyền lực của dòng họ Fujiwara, việc cai quản chính quyền bằng quan nhiếp chính trở thành luật lệ. Triều đình mất quyền kiểm soát đất nước mà chỉ còn nắm vai trò nghi thức đơn thuần. Phúc lợi công cộng bị coi nhẹ. Người đứng đầu các tỉnh trở nên tham nhũng và lười nhác. Chủ nhân của các khu trang ấp (shoen) thành lập các nhóm võ sĩ để tự vệ, tạo ra sự mở đầu của hệ thống samurai (cận vệ có vũ trang). Thơ ca Nhật Bản phát triển vững chắc, đặc biệt là waka (thể thơ 31 âm tiết). Kokinshu và các tuyển tập waka khác được biên soạn. Những tác phẩm viết khác gồm có tiểu thuyết đầu tiên của thế giới, cuốn Genji Monogatari do một mệnh phụ triều đình viết, cuốn Ise Monogatari, Tosa Nikki và Makura-no-Soshi.

Cuối Heian: Cuối thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XII
Bắt đầu một thế kỷ các Nhật hoàng đi tu nhưng vẫn cai quản công việc triều chính. Triều đình suy đồi, dần biến thành một nhà không có thực quyền, quan liêu xa rời thực tế, không chăm lo đến các phúc lợi công cộng mà chỉ bận tâm tới việc xây dựng chùa chiền và truyền bá tư tưởng Phật giáo. Tầng lớp quý tộc trong triều đình suy đồi và vô dụng. Giáo phái Phật giáo Jodo (Tịnh Thổ) phát triển. Quyền lực của các phe cánh địa phương với nền tảng là hệ thống samurai tăng lên. Dẫn đầu trong số họ là các gia đình Minamoto (Genji) và Taira (Heike hoặc Heishi). Các chùa chiền cũng duy trì lực lượng tự vệ. Những cuộc tranh giành quyền lực trong hoàng tộc và các yếu tố khác cuối cùng đã đem lại uy thế cho gia đình Taira, nhưng sau một phần tư thế kỷ nắm quyền, rốt cuộc Taira lại bị Minamoto đánh bại.

Thời Kamakura: Cuối thế kỷ XII đến cuối thế kỷ XIV
Minamoto-no-Yoritomo bổ nhiệm Seii-Taishogun (Chinh di đại tướng quân). Thành lập Mạc Phủ hay chế độ shogun đầu tiên ở Kamakura. Phát triển nông nghiệp nhờ sử dụng súc vật kéo. Thu hoạch vụ mùa nửa năm một lần. Bổ nhiệm chức vụ shugo và jito. Giáo phái Phật giáo Jodo phát triển. Giáo phái Zen du nhập vào từ Trung Quốc. Sau cái chết của Yoritomo, gia đình Hojo trở thành các quan nhiếp chính trong chế độ shogun. Dòng dõi Minamoto chẳng bao lâu kết thúc, nhưng gia đình Hojo vẫn tiếp tục làm các quan nhiếp chính, kiểm soát cả các Nhật hoàng lẫn các shogun. Giáo phái Phật giáo Nichiren (hoặc Hokke) phát triển. Heike Monogatari được viết. Samurai ngày càng trở nên có nhiều quyền lực ở các vùng trang ấp. Vào giai đoạn cuối của thời kỳ này, Nhật hoàng Godaigo nhanh chóng khôi phục lại luật lệ hoàng gia nhưng thất bại trong việc đạt được quyền kiểm soát thích đáng và bị lật đổ bởi người trước đó đã từng giúp ông là chiến binh Ashikaga Takauji - người đã đưa Komyo lên ngai vàng. Godaigo bỏ trốn và lập ra một triều đình ở Yoshino kình địch với triều đình Komyo ở Kyoto. Hai triều đình phía Bắc và phía Nam sau đó tiếp tục tồn tại trong 57 năm.

Thời Muromachi: Đầu thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XV
Chế độ shogun Ashikaga (hoặc Muromachi) bắt đầu bằng việc triều đình phía Bắc phong cho Ashikaga Takauji tước hiệu Seii-Taishogun. Tổng hành dinh được thành lập tại Muromachi ở Kyoto. Với việc hai triều đình phía Bắc và phía Nam hợp nhất lại vào năm 1392, chế độ tướng quân này cuối cùng hoàn toàn được thừa nhận. Samurai dù sao vẫn tiếp tục làm xói mòn quyền lực của giai cấp quý tộc tại các thái ấp (shoen). Chính quyền shogun bổ nhiệm một số người giữ chức shugo như đã có từ thời chính quyền shogun Kamakura. Tuy nhiên, những người này không phải là tuỳ tùng của Ashikaga, họ hành động vì lợi ích của chính họ, phát triển thành các thủ lĩnh shugo-daimyo của samurai địa phương với quyền hành riêng. Uy quyền của chế độ shogun không ngừng bị giảm sút do ảnh hưởng bởi sự yếu kém của triều đình. Tuy vậy, các môn nghệ thuật như cắm hoa, trà đạo v.v... lại phát triển. Các môn Kịch Nô, Kyogen v.v... phát triển đến độ chín mùi. Phát triển nghệ thuật vẽ tranh mực Tàu và tranh nhiều màu sắc rực rỡ theo trường phái Kano. Kết thúc thời kỳ này là cuộc chiến tranh Onin. Sau đó chế độ shogun hầu như mất toàn bộ quyền kiểm soát, dẫn đến thời kỳ của các cuộc nội chiến. Mặc dù vậy, thời kỳ này đã chứng kiến sự phát triển của nghề cá, khai thác mỏ, buôn bán v.v... Các thị trấn phát triển xung quanh các thành trì, đền chùa và bến cảng v.v...

Thời Azuchi-Momoyama: Cuối thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVI
Thời kỳ của các cuộc nội chiến. Quyền lực dần dần chuyển từ trên xuống dưới: Shogun > dòng họ Hosokawa (cấp dưới của shogun) > dòng họ Miyoshi (cấp dưới của Hosokawa) > dòng họ Matsunaga (cấp dưới của Miyoshi). Quyền lực của shugo-daimyo tăng lên, thay thế tầng lớp quý tộc cũ kiểm soát các thái ấp. Họ cố thủ trong các khu vực của mình và tìm cách mở rộng quyền lực. Việc này cuối cùng dẫn tới một xu hướng thống nhất quốc gia dưới một người lãnh đạo có quyền lực cao nhất. Trong thời kỳ này, những người châu Âu đầu tiên đã đến Nhật Bản, mang theo súng ống và Cơ đốc giáo. Việc buôn bán với nước ngoài bắt đầu. Oda Nobunaga trục xuất viên shogun Ashikaga cuối cùng và thành công trong việc thống nhất một khu vực quan trọng của đất nước. Sau khi ông chết do bị phản bội, công việc của ông được người tuỳ tùng trung thành tên là Toyotomi Hideyoshi hoàn thành. Đạo Cơ đốc và việc buôn bán với nước ngoài phát triển mạnh mẽ dưới thời Nobunaga và vào đầu thời Hideyoshi, nhưng cuối cùng Hideyoshi nghi ngờ những tham vọng về đất đai của người châu Âu và đã ra lệnh trục xuất những người truyền giáo. Việc buôn bán vẫn tiếp tục. Hideyoshi phái quân đội xâm chiếm Triều Tiên. Cuộc viễn chinh thất bại. Trường phái hội hoạ Kano và trà đạo phát triển tới đỉnh điểm. Sau khi Hideyoshi chết, quyền lực bị Tokugawa leyasu thâu tóm.

Thời Edo

Đầu Edo: Đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII
Tokugawa bổ nhiệm shogun thông qua Nhật hoàng (cả Nobunaga lẫn Hideyoshi đều không cố gắng trở thành shogun mà chỉ duy trì quyền lực qua các vị trí chính thức tại triều đình). Các daimyo chống đối gia đình Tokugawa đều bị chuyển tới các thái ấp ở những vùng xa trung tâm và bị ép phải dùng phần lớn của cải của họ để làm đường và các dự án khác, bị buộc phải luân phiên di chuyển hàng năm giữa Edo và thái ấp của mình, để lại gia đình làm con tin lâu dài ở Edo. Các thái ấp được những người tuỳ tùng của shogun cai quản, tuy nhiên quyền lực ở đây rất lớn. Thành lập bộ luật hợp pháp cho các gia đình quý tộc, tạo điều kiện cho chế độ shogun kiểm soát triều đình và hoàng đế. Hệ thống 4 đẳng cấp (1. võ sĩ, 2. nông dân, 3. thợ thủ công, 4. nhà buôn) được thừa nhận, cùng với việc hôn nhân giới hạn trong những người ở cùng một đẳng cấp. Ở từng đẳng cấp, mối quan hệ chủ - tớ phong kiến được thiết lập. Chế độ shogun Tokugawa được thiết lập vững chắc trên hệ thống này và được biết tới dưới tên gọi bakuhan (Kết hợp shogun và chủ thái ấp). Buôn bán và đạo Cơ đốc một lần nữa lại phát triển thịnh vượng trong thời gian ngắn, tuy nhiên, cũng như Hideyoshi, Ieyasu cuối cùng đã nhìn thấy nguy cơ của đạo Cơ đốc và bắt đầu những biện pháp đàn áp với mức độ ngày càng tăng. Tới thời kỳ của shogun Tokugawa thì việc cấm đạo Cơ đốc và buôn bán hầu như đã hoàn thành. Những người Nhật Bản tin vào đạo Cơ đốc bị hành hình. Các thương gia, trừ người Hà Lan và người Trung Hoa, đều bị cấm tới Nhật Bản, và người Hà Lan bị hạn chế chỉ cho phép đến một hòn đảo nhỏ ở cảng Nagasaki. Quyền lực của chế độ shogun được củng cố, việc cai trị tập trung, công nghiệp và nghề thủ công phát triển mạnh mẽ, giao thông được cải thiện, đem lại sự thịnh vượng cho buôn bán và thương mại nội địa. Các thị trấn mọc lên ngày càng nhiều và rất hưng thịnh, đặc biệt là các đô thị quanh cung điện. Giới thương gia trở nên giàu có, và từ tầng lớp này xuất hiện những hình thức nghệ thuật mới, bao gồm thơ haiku (Matsuo Basho), thể loại tiểu thuyết (Ihara Saikaku), kịch rối (Chikamatsu Monzaemon), các bản in tranh khắc gỗ ukiyoe v.v... Kịch Kabuki được dàn dựng lần đầu tiên ở Kyoto vào đầu thời kỳ này, sau đó hạn chế chỉ dành cho diễn viên nam, bắt đầu được diễn ở Edo và Osaka vào cuối thể kỷ XVII.

Giữa Edo: Đầu thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX
Hệ thống bakuhan không ngừng suy yếu do sự tập trung của cải vào tay giới thương gia. Chế độ shogun gặp phải những khó khăn tài chính, samurai và nông dân rơi vào cảnh nghèo khó. Đã có các nỗ lực nhằm cải cách chế độ shogun, nhưng do vẫn duy trì chính sách thả lỏng việc tư nhân kinh doanh nên tình trạng suy vong ngày càng nặng nề. Nạn đói kém và thảm hoạ thiên nhiên, cộng thêm sưu cao thuế nặng (đối với lúa gạo) mà chế độ shogun và daimyo bắt người dân gánh vác đã biến những người nông dân và các tầng lớp dân thường khác thành nghèo khổ. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân xuất hiện. Trong lĩnh vực văn hoá, chứng kiến sự nở rộ cuối cùng của nền văn hoá Edo. Các truyện ngắn theo xu hướng phóng đãng, truyện tình lịch sử, nghệ thuật đóng kịch Kabuki, các loại tranh và bản in gỗ gồm "nishiki-e" (bản in tranh nhiều màu) được phát triển. Giáo dục được truyền bá vào tầng lớp thương gia và thậm chí cả những nông dân tại "terakoya". Phát triển các trường "kokugaku" (Quốc học), một xu hướng giáo dục thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa và trở lại các truyền thống quốc gia. “Rangaku" (Hà Lan học) - việc nghiên cứu các tác phẩm khoa học khác nhau du nhập từ phương Tây qua các thương nhân Hà Lan như địa lý, y học, thiên văn, vật lý, hoá học v.v... cũng dần dần được phát triển.

Cuối Edo: Đầu thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XIX
Suốt thời kỳ đầu Edo, những người nước ngoài đủ loại đã đặt chân lên đất Nhật Bản, nhưng tiếp theo chuyến viếng thăm của thuyền trưởng Perry năm 1853 nhân danh Tổng thống Mỹ đòi hỏi mở cửa đất nước để buôn bán, các lực lượng trong và ngoài Nhật Bản đã dần dần ép nhà nước phải từ bỏ chính sách bế quan toả cảng. Chế độ Shogun quyết định buôn bán với các dân tộc khác. Mặc dù xung đột quyền lực giữa shogun và các lực lượng hoàng gia đã đem lại thắng lợi cho những người ủng hộ Nhật hoàng - những người đã công khai chống đối chính sách này - nhưng sau khi shogun sụp đổ, họ đã ủng chính sách buôn bán với nước ngoài và việc đổi mới đất nước.

Thời Minh Trị

Đầu Minh Trị: Cuối thế kỷ XIX
Các thái ấp phong kiến bị bãi bỏ và thay thế bằng hệ thống quản lý hành chính theo cấp tỉnh. Các đẳng cấp trong xã hội phong kiến bị huỷ bỏ. Quân đội quốc gia và việc tuyển quân, chế độ thuế mới, hệ thống tiền tệ theo hệ thập phân, mạng lưới đường sắt, cùng các hệ thống thư tín, điện thoại, điện báo được thiết lập. Công nghiệp hiện đại được khởi đầu với các nhà máy do nhà nước xây dựng và điều hành, sau này được chuyển sang sở hữu tư nhân. Việc cải cách gặp phải sự chống đối đáng kể nhưng đều bị dẹp yên. Quan hệ buôn bán với Triều Tiên và Trung Quốc được thiết lập. Nhà nước đã nỗ lực hết sức để sửa đổi những hiệp ước không công bằng đã được ký kết với các nước phương Tây. Đạo Phật và Thần đạo, sau thời gian dài hợp nhất, đã chính thức tách ra. Thần đạo được lấy làm nền tảng tư tưởng cho điều lệ của hoàng gia. Việc cấm đạo Cơ đốc được huỷ bỏ. Các trường học mới, theo phong cách phương Tây, được lập nên ở khắp nơi, không phân biệt đẳng cấp, tài sản hay giới tính. Các lý tưởng về tự do, chủ nghĩa xã hội, bình đẳng v.v... cũng du nhập vào từ phương Tây và khá hưng thịnh trong một thời gian ngắn. Việc ăn mặc và nhiều vấn đề khác trong đời sống hàng ngày chịu ảnh hưởng của phương Tây. Việc kêu gọi thành lập một chính phủ lập hiến dẫn tới sự ra đời của Nghị viện quốc gia và việc ban hành hiến pháp. Nghị viện tuy nhiên chỉ có ít quyền lực thực tế. Năm 1894, hiệp ước bất bình đẳng với Anh quốc trong buôn bán được sửa đổi và các hiệp ước với những quốc gia khác cũng sửa đổi theo cho phù hợp. Chiến tranh Trung - Nhật nổ ra. Sau thắng lợi của Nhật, Nga, Đức và Pháp ép Nhật phải từ bỏ một số lãnh thổ đã chiếm đóng, tạo ra mâu thuẫn lâu dài và sâu sắc giữa Nhật và các nước Nga, Đức và Pháp. Liên minh Nhật - Anh hình thành. Chiến tranh Nga - Nhật bùng nổ.

Cuối Minh Trị: Đầu thế kỷ XX
Trong giai đoạn đầu, cuộc cách mạng công nghiệp ở Nhật Bản chủ yếu tập trung vào công nghiệp nhẹ. Tuy nhiên, ở giai đoạn thứ hai, việc xây dựng công nghiệp nặng đã được tăng cường, tập trung trước hết vào công nghiệp sắt thép (đặc biệt với sự sẵn có của nguồn quặng sắt và than Mãn Châu sau khi Nhật giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật). Các con tàu lớn, cơ động và các thiết bị đường sắt khác v.v.. được sản xuất trong nước.

Thời Taisho: Đầu thế kỷ XX
Thời kỳ này chứng kiến cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Cuộc chiến tranh này đã thúc đẩy kinh tế và buôn bán của Nhật Bản phát triển. Nhật Bản đồng thời cũng chiếm được đất đai ở Trung Hoa và Nam Thái Bình Dương, nhưng lại làm cho các quốc gia phương Tây ngờ vực. Nhật Bản đầu tư vốn vào Trung Hoa. Trong chiến tranh, các cuộc thương lượng ngoại giao quốc tế được tiến hành để cố gắng duy trì sự cân bằng quyền lực. Ở Nhật Bản, các đảng phái chính trị trở nên mạnh hơn và các lý tưởng dân chủ chiếm ưu thế. Sau cùng, dù sao, sự khủng hoảng của nền kinh tế hậu chiến trên thế giới đã ảnh hưởng bất lợi tới các nhà kinh doanh Nhật Bản, đồng thời trận động đất Kanto dữ dội vào năm 1923 đã làm cho nền kinh tế thêm khó khăn. Tình trạng thất nghiệp, đồng lương sụt giảm và tranh chấp việc làm luôn xảy ra. Phong trào xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế.

Thời Showa

Đầu Showa: Đầu thế kỷ XX đến giữa thế kỷ XX
Suy thoái kinh tế và bế tắc ngoại giao. Xuất khẩu giảm sút. Phá sản xảy ra thường xuyên, nhiều người thất nghiệp. Chính sách kiềm chế của Mỹ đối với Nhật Bản gia tăng. Hiệp định Ishii-Lansing, thừa nhận quyền lợi đặc biệt của Nhật Bản ở Trung Hoa, đã chấm dứt. Các dự thảo luật chống người nhập cư Nhật Bản ra đời và phong trào trục xuất người Nhật Bản ở Trung Hoa lan rộng. Nội các không thể đối phó được vì các nhà chính trị và các Zaibatsu đã chiếm độc quyền, bị thu hút bởi các lợi ích tài chính, mà quên mất quyền lợi quốc gia và sự đau khổ của nhân dân. Rắc rối lên đến đỉnh điểm ở cánh hữu gây ra những vụ ám sát và các hoạt động quân sự, dẫn tới chính sách mở rộng xâm lược ở Trung Hoa, rút khỏi Hội Quốc liên và chủ nghĩa bành trướng của những người theo chủ nghĩa quân phiệt cánh hữu gia tăng. Sau này họ đã liên kết với chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quốc xã. Do vậy Nhật Bản đã gây ra chiến tranh Thái Bình Dương.

Cuối Showa: Giữa thế kỷ XX
Thất bại trong chiến tranh và sự sụp đổ của chủ nghĩa quân phiệt làm cho Nhật Bản bị chiếm đóng. Tiến hành các cải cách dân chủ, xây dựng lại nền công nghiệp bị tàn phá. Hiệp ước San Francisco có hiệu lực. Đạt được các kỳ tích về kinh tế và đời sống của nhân dân được nâng cao. Nhật Bản lại đóng vai trò quốc tế như một quốc gia thương mại và dần dần trở thành nước có tiềm lực kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, sau Mỹ. Xảy ra vụ bê bối Lockheed, chính trường xáo trộn, đồng yên tăng giá và buôn bán thặng dư trở thành một vấn đề quốc tế. Đã diễn ra những sự kiện trọng đại trong đời sống kinh tế, xã hội Nhật Bản: Khai trương mạng lưới tàu Shinkansen (Tokaido, San’yo, Tohoku, Kan’etsu), chia tách và tư hữu hoá đường sắt quốc gia, mở đường hầm Seikan, khai trương cầu Seto Ohashi, vụ bê bối Recruit.

Thời Heisei: Cuối thế kỷ XX
Chiến tranh vùng Vịnh, hoạt động chính trị bị hỗn loạn, vụ bê bối Sagawa Kyubin. Hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hiệp quốc được triển khai. Lực lượng phòng vệ được cử đến Campuchia và Môdămbích. Xảy ra trận động đất Hanshin-Awaji. Bắt đầu thời kì trì trệ.

                                                                                  
                    Về đầu trang

4. Khoa học - kỹ thuật

Sẽ không quá lời khi nói Nhật Bản là một cường quốc khoa học - kỹ thuật. Trình độ khoa học - kỹ thuật của Nhật Bản, theo đánh giá tổng hợp của Bộ Giáo dục, Văn hoá, Thể thao, Khoa học và Kỹ thuật Nhật Bản chỉ thua kém Mỹ nhưng vượt Đức, Anh, Pháp. Sản phẩm công nghiệp dựa trên kỹ thuật cao của Nhật Bản có mặt trên khắp thế giới. Số lượng bằng phát minh sáng chế của các công ty Nhật Bản không ngừng tăng và không ít nhà khoa học Nhật Bản đã đoạt giải Nobel.

Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn bị coi là cường quốc khoa học - kỹ thuật “vô định” vì thiếu một chiến lược phát triển tổng thể. Những thành tựu khoa học - kỹ thuật chưa được tận dụng hiệu quả, mối gắn kết giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp yếu và việc chuyển giao tri thức, công nghệ chậm chạp.
Nguyên nhân cản trở phát triển khoa học - kỹ thuật không chỉ dừng lại ở việc thiếu một chiến lược và chính sách linh hoạt với mục tiêu cụ thể, mà còn nằm ở phong cách quản lý khoa học không theo kịp với những thay đổi quốc tế. Người Nhật thường tránh cách đánh giá thẳng thừng mà coi trọng quan hệ trên dưới, quen biết, dẫn đến môi trường hạn chế những sáng tạo của các nhà khoa học trẻ. Cơ chế quản lý cứng nhắc dẫn đến nhân tài không được đánh giá đúng mức và làm xuất hiện hiện tượng chảy máu chất xám sang những nước có môi trường nghiên cứu ưu việt hơn, điển hình là Mỹ.

Việc thiếu quan tâm đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ bản cũng dẫn đến hậu quả là Nhật Bản không có được những phát minh khoa học lớn làm tiền đề cho những nghiên cứu trong tương lai. Việc tập trung vốn đầu tư vào nghiên cứu các lĩnh vực “ít rủi ro” đã làm cho Nhật Bản bỏ lỡ nhiều cơ hội đưa Nhật Bản dẫn đầu thế giới trong những ngành khoa học mũi nhọn. Kết quả là Nhật Bản xếp hạng cao trong công nghệ vật liệu và năng lượng, đặc biệt trong công nghệ siêu nhỏ, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, nhưng lại tụt hậu trong công nghệ sinh học và công nghệ thông tin – những lĩnh vực hiện đang mang lại những thay đổi hết sức to lớn. Ngay cả trong những lĩnh vực Nhật Bản từng chiếm ưu thế như công nghệ siêu nhỏ, sức cạnh tranh của Nhật Bản cũng đã yếu đi rõ ràng sau nhiều năm không được đầu tư đúng mức.

Trong những năm gần đây, Nhật Bản đã nhận thức rõ khoa học - kỹ thuật là yếu tố cơ bản tạo nên tính cạnh tranh quốc tế và là nền tảng để chuyển đổi sang xã hội tri thức. Chính phủ đã đề ra kế hoạch cơ bản phát triển khoa học - kỹ thuật với mục đích không chỉ đưa Nhật Bản trở thành quốc gia có tính cạnh tranh kinh tế cao và phát triển bền vững, mà còn là quốc gia có thể đóng góp cho thế giới thông qua sáng tạo và áp dụng tri thức.

"Learn, learn more, learn forever

Learning Japanese



DO VAN PHUONG - Learning Japanese

DO VAN PHUONG

Thanks,

Learning Japanese

NHẬP MÔN  TIẾNG NHẬT

Learn to Read and Write Japanese - Kantan Kana

Welcome to JapanesePod101.com's Kantan Kana.  In this series, you will learn the Japanese writing systems known as Kana. Japanese has three writing systems: Hiragana, Katakana and Kanji. This series, we will learn both Hiragana and Katakana, collectively known as Kana. Over 25 lessons we will teach you Kana using simple steps, showing stroke order, tricks for memorization, and usage in common Japanese words. If you want to get started reading and writing Japanese, this is THE place to start.  So join us for Kantan Kana from JapanesePod101.com.

In our sixth lesson, we move on to the next group of hiragana characters, は,ひ,ふ,へ, and ほ and we'll teach you a few words you can write with these characters. Are you ready to learn more Japanese characters?

If you learned a lot with this video, stop by our Japanese language learning website and get other language learning content including other great videos like this one, audio podcasts, review materials, blogs, iPhone applications, and more.

HIRAGANA.

Những thông tin cơ bản về bảng kí âm Hiragana
Có 46 kí âm Hiragana cơ bản với 46 kí hiệu cho 46 âm tiếng nhật cơ bản. Hiragana được sử dụng để biểu diễn "các quy tắc ngữ pháp" như là các mạo từ, giới từ, phó từ và kết thúc của các tính từ và động từ trong khi viết các câu. Kanji được sử dụng để biểu đạt thành phần "ý nghĩa" như là danh từ và những nét chính của tính từ và động từ.
Có thể viết toàn bộ các câu tiếng Nhật bằng kí âm hiragana. Nếu một ai quên chút ít chữ kanji hiếm sử dụng, họ có thể thay thế hiragana vào chỗ đó. Ở Nhật bản, trẻ em được học bảng hiragana trước khi học gần 2000 chứ Kanji cơ bản hiện đang sử dụng. 

 

 

 

 

 a Cách viết chữ hiragana   ひらがな あ、い、う、え、おi Cách viết chữ hiragana   ひらがな あ、い、う、え、おu Cách viết chữ hiragana   ひらがな あ、い、う、え、おe Cách viết chữ hiragana   ひらがな あ、い、う、え、おo Cách viết chữ hiragana   ひらがな あ、い、う、え、お

 

 

 ka Cách viết chữ hiragana  ひらがな か、き、く、け、こki Cách viết chữ hiragana  ひらがな か、き、く、け、こku Cách viết chữ hiragana  ひらがな か、き、く、け、こke Cách viết chữ hiragana  ひらがな か、き、く、け、こko Cách viết chữ hiragana  ひらがな か、き、く、け、こ

 

 sa Cách viết chữ hiragana ひらがな さ、し、す、せ、そshi Cách viết chữ hiragana ひらがな さ、し、す、せ、そsu Cách viết chữ hiragana ひらがな さ、し、す、せ、そse Cách viết chữ hiragana ひらがな さ、し、す、せ、そso Cách viết chữ hiragana ひらがな さ、し、す、せ、そ

 

 

ta Cách viết chữ hiragana ひらがな た、ち、つ、て、とchi Cách viết chữ hiragana ひらがな た、ち、つ、て、とtsu Cách viết chữ hiragana ひらがな た、ち、つ、て、とte Cách viết chữ hiragana ひらがな た、ち、つ、て、とto Cách viết chữ hiragana ひらがな た、ち、つ、て、と

 

 na Cách viết chữ hiragana ひらがな な、に、ぬ、ね、のni Cách viết chữ hiragana ひらがな な、に、ぬ、ね、のnu Cách viết chữ hiragana ひらがな な、に、ぬ、ね、のne Cách viết chữ hiragana ひらがな な、に、ぬ、ね、のno Cách viết chữ hiragana ひらがな な、に、ぬ、ね、の

 

 

 ha Cách viết chữ hiragana ひらがな は、ひ、ふ、へ、ほhi Cách viết chữ hiragana ひらがな は、ひ、ふ、へ、ほfu Cách viết chữ hiragana ひらがな は、ひ、ふ、へ、ほhe Cách viết chữ hiragana ひらがな は、ひ、ふ、へ、ほho Cách viết chữ hiragana ひらがな は、ひ、ふ、へ、ほ

 

 

 ma Cách viết chữ hiragana   ひらがな  ま、み、む、め、もmi Cách viết chữ hiragana   ひらがな  ま、み、む、め、もmu Cách viết chữ hiragana   ひらがな  ま、み、む、め、もme Cách viết chữ hiragana   ひらがな  ま、み、む、め、もmo Cách viết chữ hiragana   ひらがな  ま、み、む、め、も

 ya Cách viết chữ hiragana  ひらがな や、ゆ、よ yu Cách viết chữ hiragana  ひらがな や、ゆ、よyo Cách viết chữ hiragana  ひらがな や、ゆ、よ

 

 ra Cách viết chữ hiragana  ひらがな  ら、り、る、れ、ろri Cách viết chữ hiragana  ひらがな  ら、り、る、れ、ろru Cách viết chữ hiragana  ひらがな  ら、り、る、れ、ろre Cách viết chữ hiragana  ひらがな  ら、り、る、れ、ろro Cách viết chữ hiragana  ひらがな  ら、り、る、れ、ろ

 wa Cách viết chữ hiragana   ひらがな わ、を、んwo Cách viết chữ hiragana   ひらがな わ、を、んn Cách viết chữ hiragana   ひらがな わ、を、ん

 hira12  Hiragana

 hira13 Hiragana

 hira14 Hiragana

 hira15 Hiragana

 hira16 Hiragana

 hira17 Hiragana

 hira18 Hiragana

 hira19 Hiragana

 

hira20 Hiragana

 hira21  Hiragana

 hira22 Hiragana

 hira23 Hiragana

 hira24 Hiragana

 

 hira26 Hiragana

hira25 Hiragana

 hira27 Hiragana

KATAKANA

Bảng Katakana bao gồm các kí tự và âm giống như bảng Hiragana nhưng cách viết khác.

 

 

 a1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  アイウエオi1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  アイウエオu1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  アイウエオe1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  アイウエオo1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  アイウエオ

 ka1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  カキクケコki1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  カキクケコku1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  カキクケコke1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  カキクケコko1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  カキクケコ

 sa1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  サシスセソshi1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  サシスセソsu1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  サシスセソse1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  サシスセソso1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  サシスセソ

 ta1 Cách viết chữ katakana   カタカナ タチツテトchi1 Cách viết chữ katakana   カタカナ タチツテトtsu1 Cách viết chữ katakana   カタカナ タチツテトte1 Cách viết chữ katakana   カタカナ タチツテトto1 Cách viết chữ katakana   カタカナ タチツテト

 na1 Cách viết katakana  カタカナ  ナ二ヌネノni1 Cách viết katakana  カタカナ  ナ二ヌネノnu1 Cách viết katakana  カタカナ  ナ二ヌネノne1 Cách viết katakana  カタカナ  ナ二ヌネノno1 Cách viết katakana  カタカナ  ナ二ヌネノ

 ha1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ハヒフヘホhi1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ハヒフヘホfu1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ハヒフヘホhe1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ハヒフヘホho1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ハヒフヘホ

 ma1 Cách viết chữ katakana   カタカナ マミムメモmi1 Cách viết chữ katakana   カタカナ マミムメモmu1 Cách viết chữ katakana   カタカナ マミムメモme1 Cách viết chữ katakana   カタカナ マミムメモmo1 Cách viết chữ katakana   カタカナ マミムメモ

 ya1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ヤユヨyu1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ヤユヨyo1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ヤユヨ

 ra1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ラ、 リ、 ル、レ、 ロri1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ラ、 リ、 ル、レ、 ロru1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ラ、 リ、 ル、レ、 ロre Cách viết chữ katakana   カタカナ ラ、 リ、 ル、レ、 ロro1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ラ、 リ、 ル、レ、 ロ

 wa1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ワ ヲ ンwo1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ワ ヲ ンn1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ワ ヲ ン

 kata12 Katakana

 kata13 Katakana

 kata14 Katakana

 kata16 Katakana

kata15 Katakanakata17 Katakana

 kata18 Katakana

 kata19 Katakana

 kata20 Katakana

 

 kata21 Katakana

 kata22 Katakana

 kata23 Katakana

 kata24 Katakana

 kata25 Katakana

 kata26 Katakana

 kata27 Katakana

Kanji (漢字, Hán tự)

Kanji (漢字, Hán tự) là chữ Hán dùng trong tiếng Nhật. Kanji là một trong 5 bộ kí tự được dùng trong hệ thống chữ viết tiếng Nhật hiện nay; 4 bộ kí tự kia là hiragana, katakana, bảng chữ cái La Tinh (rōmaji), và chữ số Ả-rập.

Bài này tập trung nói về cách dùng chữ Hán trong tiếng Nhật.

Mục lục
1 Lịch sử
2 Phân loại kanji theo lịch sử
2.1 Kokuji
2.2 Kokkun
2.3 Từ cũ và từ mới


Lịch sử
Có một số bất đồng về cách thức chữ Hán du nhập vào Nhật Bản, nhưng ý kiến được chấp nhận rộng rãi nhất là các tu sĩ Phật giáo đã mang các văn bản chữ Hán vào Nhật vào khoảng thế kỉ thứ 5. Các văn bản này được viết bằng chữ Hán vào và lúc đầu cũng được đọc bằng âm Hán. Tuy nhiên qua thời gian, hệ thống kanbun (漢文, Hán văn) xuất hiện - nó dùng văn bản chữ Hán với dấu thanh cho phép người Nhật đọc nó theo quy tắc ngữ pháp tiếng Nhật.

Lúc bấy giờ tiếng Nhật chưa có dạng chữ viết. Ngay cả hệ thống chữ viết man'yōgana (万葉仮名, vạn diệp giả danh, được dùng trong tuyển tập thơ cổ Man'yōshū) cũng dùng bộ chữ Hán với số kí tự hạn chế nhằm ký âm, chứ không nhằm diễn đạt ngữ nghĩa. Man'yōgana viết ở dạng đường cong trở thành hiragana (ひらがな, 平仮名, bình giả danh), một hệ thống chữ viết dành cho phụ nữ (không được phép tham gia vào nền giáo dục cao). Hầu hết văn chương của phụ nữ vào thời đại Heian được viết bằng hiragana. Song song đó, katakana (カタカナ, 片仮名, phiến giả danh) xuất hiện do được các tu sinh giản lược manyogana thành một thành tố đơn. Hiragana và katakana được gọi chung là kana.

Khi hệ thống chữ viết tiếng Nhật trưởng thành và mở rộng, kanji được dùng để viết một số phần trong câu, như danh từ, tính từ và động từ, còn hiragana được dùng để viết đuôi của động từ (okurigana), từ chỉ có ở tiếng Nhật và từ khó đọc hay nhớ bằng Kanji. Hiragana cũng được dùng trong sách dùng cho trẻ em và khi muốn giảm nhẹ mức độ của từ hoặc lời yêu cầu, thí dụ như từ kudasai (ください, xin vui lòng) và kodomo (子供, trẻ em). Ngược lại, vì có hình dạng góc cạnh, katakana được dùng để biểu thị từ tượng thanh, các âm thô và đột ngột, âm thanh của động vật và từ vay mượn của nước ngoài. Tuy nhiên cần lưu ý rằng việc dùng katakana để viết từ vay mượn chỉ xuất hiện sau này. Lúc đầu, các từ này được viết bằng kanji, dựa theo nghĩa (煙草 tabako, thuốc lá) hay theo phát âm (tempura 天婦羅 hay 天麩羅, tên một món ăn). Ngày nay thì ngược lại. Từ vay mượn, đặc biệt là gốc tiếng Anh, đang nhanh chóng thay thế cả những từ thường dùng có sẵn dạng tương đương trong tiếng Nhật thay vì được dùng để lấp khoảng trống từ vựng. Một giáo sư ngôn ngữ học ước tính đến 1/3 tiếng Nhật văn nói dùng từ vay mượn hay wasei-eigo, từ tiếng Anh được phát minh bởi người Nhật và từ kết hợp như パソコン pasokon (personal computer, máy tính cá nhân).

Phân loại kanji theo lịch sử

Kokuji
Trong khi một số từ kanji và Hán tự của người Hoa có thể đọc qua lại lẫn nhau, một số từ kanji lại không có Hán tự tương đương. Ngoài những từ được dùng với nghĩa khác, những từ có cùng nghĩa nhưng viết khác, cũng có những từ riêng của tiếng Nhật được gọi là kokuji (国字, quốc tự), còn được gọi là wasei kanji (和製漢字, Hán tự được chế ra tại Nhật). Có hàng trăm chữ kokuji (xem danh sách ở sci.lang.japan AFAQ), và mặc dù một số từ này ít được dùng, những từ còn lại đã góp phần quan trọng và ngôn ngữ viết tiếng Nhật. Chúng bao gồm:

峠 tōge (đỉnh đèo)
榊 sakaki (cây sakaki, giống Camellia)
畑 hatake (cánh đồng)
辻 tsuji (ngã tư đường)
働 dō, hatara(ku) (làm việc)

Kokkun
Kokkun (国訓, quốc huấn) là những chữ kanji có nghĩa trong tiếng Nhật khác với nghĩa nguyên thuỷ trong tiếng Hán. Thí dụ:

沖 oki (ngoài khơi; tiếng Hoa: chōng rửa)
椿 tsubaki (Camellia japonicus, cây hoa trà; tiếng Hoa: chūn cây Ailantus)

Từ cũ và từ mới
Một số chữ kanji có thể được viết theo 2 cách khác nhau 旧字体 (kyūjitai; cổ tự thể hay cách viết cũ) và 新字体 (shinjitai; tân tự thể hay cách viết mới). Dưới đây là một số thí dụ về kyūjitai theo sau bởi shinjitai:

國 国 kuni (quốc gia)
號 号 gō (số)
變 変 hen, ka(waru) (thay đổi)
Kyūjitai được dùng trước khi Đệ nhị thế chiến kết thúc; sau chiến tranh chính phủ Nhật đưa ra shin-jitai với lối viết đơn giản hoá. Một số chữ mới này tương tự với tiếng Hoa giản thể được dùng tại Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.

Cũng có những chữ Hán được dùng trong tiếng Nhật chỉ với mục đích phát âm (当て字 ateji). và nhiều chữ Hán không được dùng trong tiếng Nhật. Tuy nhiên, về mặt lí thuyết, bất cứ chữ Hán nào cũng có thể là chữ Nhật — Morohashi Daikanwa Jiten, từ điển kanji lớn nhất cho đến nay, có gần 50.000 mục từ, gồm cả những mục từ chưa từng được dùng trong tiếng Nhật.

 
 

 

DO VAN PHUONG - Learning Japanese

DO VAN PHUONG

Thanks,

Learning Japanese

NHẬP MÔN  TIẾNG NHẬT

Learn to Read and Write Japanese - Kantan Kana

Welcome to JapanesePod101.com's Kantan Kana.  In this series, you will learn the Japanese writing systems known as Kana. Japanese has three writing systems: Hiragana, Katakana and Kanji. This series, we will learn both Hiragana and Katakana, collectively known as Kana. Over 25 lessons we will teach you Kana using simple steps, showing stroke order, tricks for memorization, and usage in common Japanese words. If you want to get started reading and writing Japanese, this is THE place to start.  So join us for Kantan Kana from JapanesePod101.com.

In our sixth lesson, we move on to the next group of hiragana characters, は,ひ,ふ,へ, and ほ and we'll teach you a few words you can write with these characters. Are you ready to learn more Japanese characters?

If you learned a lot with this video, stop by our Japanese language learning website and get other language learning content including other great videos like this one, audio podcasts, review materials, blogs, iPhone applications, and more.

HIRAGANA.

Những thông tin cơ bản về bảng kí âm Hiragana
Có 46 kí âm Hiragana cơ bản với 46 kí hiệu cho 46 âm tiếng nhật cơ bản. Hiragana được sử dụng để biểu diễn "các quy tắc ngữ pháp" như là các mạo từ, giới từ, phó từ và kết thúc của các tính từ và động từ trong khi viết các câu. Kanji được sử dụng để biểu đạt thành phần "ý nghĩa" như là danh từ và những nét chính của tính từ và động từ.
Có thể viết toàn bộ các câu tiếng Nhật bằng kí âm hiragana. Nếu một ai quên chút ít chữ kanji hiếm sử dụng, họ có thể thay thế hiragana vào chỗ đó. Ở Nhật bản, trẻ em được học bảng hiragana trước khi học gần 2000 chứ Kanji cơ bản hiện đang sử dụng. 

 

 

 

 

 a Cách viết chữ hiragana   ひらがな あ、い、う、え、おi Cách viết chữ hiragana   ひらがな あ、い、う、え、おu Cách viết chữ hiragana   ひらがな あ、い、う、え、おe Cách viết chữ hiragana   ひらがな あ、い、う、え、おo Cách viết chữ hiragana   ひらがな あ、い、う、え、お

 

 

 ka Cách viết chữ hiragana  ひらがな か、き、く、け、こki Cách viết chữ hiragana  ひらがな か、き、く、け、こku Cách viết chữ hiragana  ひらがな か、き、く、け、こke Cách viết chữ hiragana  ひらがな か、き、く、け、こko Cách viết chữ hiragana  ひらがな か、き、く、け、こ

 

 sa Cách viết chữ hiragana ひらがな さ、し、す、せ、そshi Cách viết chữ hiragana ひらがな さ、し、す、せ、そsu Cách viết chữ hiragana ひらがな さ、し、す、せ、そse Cách viết chữ hiragana ひらがな さ、し、す、せ、そso Cách viết chữ hiragana ひらがな さ、し、す、せ、そ

 

 

ta Cách viết chữ hiragana ひらがな た、ち、つ、て、とchi Cách viết chữ hiragana ひらがな た、ち、つ、て、とtsu Cách viết chữ hiragana ひらがな た、ち、つ、て、とte Cách viết chữ hiragana ひらがな た、ち、つ、て、とto Cách viết chữ hiragana ひらがな た、ち、つ、て、と

 

 na Cách viết chữ hiragana ひらがな な、に、ぬ、ね、のni Cách viết chữ hiragana ひらがな な、に、ぬ、ね、のnu Cách viết chữ hiragana ひらがな な、に、ぬ、ね、のne Cách viết chữ hiragana ひらがな な、に、ぬ、ね、のno Cách viết chữ hiragana ひらがな な、に、ぬ、ね、の

 

 

 ha Cách viết chữ hiragana ひらがな は、ひ、ふ、へ、ほhi Cách viết chữ hiragana ひらがな は、ひ、ふ、へ、ほfu Cách viết chữ hiragana ひらがな は、ひ、ふ、へ、ほhe Cách viết chữ hiragana ひらがな は、ひ、ふ、へ、ほho Cách viết chữ hiragana ひらがな は、ひ、ふ、へ、ほ

 

 

 ma Cách viết chữ hiragana   ひらがな  ま、み、む、め、もmi Cách viết chữ hiragana   ひらがな  ま、み、む、め、もmu Cách viết chữ hiragana   ひらがな  ま、み、む、め、もme Cách viết chữ hiragana   ひらがな  ま、み、む、め、もmo Cách viết chữ hiragana   ひらがな  ま、み、む、め、も

 ya Cách viết chữ hiragana  ひらがな や、ゆ、よ yu Cách viết chữ hiragana  ひらがな や、ゆ、よyo Cách viết chữ hiragana  ひらがな や、ゆ、よ

 

 ra Cách viết chữ hiragana  ひらがな  ら、り、る、れ、ろri Cách viết chữ hiragana  ひらがな  ら、り、る、れ、ろru Cách viết chữ hiragana  ひらがな  ら、り、る、れ、ろre Cách viết chữ hiragana  ひらがな  ら、り、る、れ、ろro Cách viết chữ hiragana  ひらがな  ら、り、る、れ、ろ

 wa Cách viết chữ hiragana   ひらがな わ、を、んwo Cách viết chữ hiragana   ひらがな わ、を、んn Cách viết chữ hiragana   ひらがな わ、を、ん

 hira12  Hiragana

 hira13 Hiragana

 hira14 Hiragana

 hira15 Hiragana

 hira16 Hiragana

 hira17 Hiragana

 hira18 Hiragana

 hira19 Hiragana

 

hira20 Hiragana

 hira21  Hiragana

 hira22 Hiragana

 hira23 Hiragana

 hira24 Hiragana

 

 hira26 Hiragana

hira25 Hiragana

 hira27 Hiragana

KATAKANA

Bảng Katakana bao gồm các kí tự và âm giống như bảng Hiragana nhưng cách viết khác.

 

 

 a1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  アイウエオi1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  アイウエオu1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  アイウエオe1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  アイウエオo1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  アイウエオ

 ka1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  カキクケコki1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  カキクケコku1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  カキクケコke1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  カキクケコko1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  カキクケコ

 sa1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  サシスセソshi1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  サシスセソsu1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  サシスセソse1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  サシスセソso1 Cách viết chữ katakana  カタカナ  サシスセソ

 ta1 Cách viết chữ katakana   カタカナ タチツテトchi1 Cách viết chữ katakana   カタカナ タチツテトtsu1 Cách viết chữ katakana   カタカナ タチツテトte1 Cách viết chữ katakana   カタカナ タチツテトto1 Cách viết chữ katakana   カタカナ タチツテト

 na1 Cách viết katakana  カタカナ  ナ二ヌネノni1 Cách viết katakana  カタカナ  ナ二ヌネノnu1 Cách viết katakana  カタカナ  ナ二ヌネノne1 Cách viết katakana  カタカナ  ナ二ヌネノno1 Cách viết katakana  カタカナ  ナ二ヌネノ

 ha1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ハヒフヘホhi1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ハヒフヘホfu1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ハヒフヘホhe1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ハヒフヘホho1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ハヒフヘホ

 ma1 Cách viết chữ katakana   カタカナ マミムメモmi1 Cách viết chữ katakana   カタカナ マミムメモmu1 Cách viết chữ katakana   カタカナ マミムメモme1 Cách viết chữ katakana   カタカナ マミムメモmo1 Cách viết chữ katakana   カタカナ マミムメモ

 ya1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ヤユヨyu1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ヤユヨyo1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ヤユヨ

 ra1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ラ、 リ、 ル、レ、 ロri1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ラ、 リ、 ル、レ、 ロru1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ラ、 リ、 ル、レ、 ロre Cách viết chữ katakana   カタカナ ラ、 リ、 ル、レ、 ロro1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ラ、 リ、 ル、レ、 ロ

 wa1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ワ ヲ ンwo1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ワ ヲ ンn1 Cách viết chữ katakana   カタカナ ワ ヲ ン

 kata12 Katakana

 kata13 Katakana

 kata14 Katakana

 kata16 Katakana

kata15 Katakanakata17 Katakana

 kata18 Katakana

 kata19 Katakana

 kata20 Katakana

 

 kata21 Katakana

 kata22 Katakana

 kata23 Katakana

 kata24 Katakana

 kata25 Katakana

 kata26 Katakana

 kata27 Katakana

Kanji (漢字, Hán tự)

Kanji (漢字, Hán tự) là chữ Hán dùng trong tiếng Nhật. Kanji là một trong 5 bộ kí tự được dùng trong hệ thống chữ viết tiếng Nhật hiện nay; 4 bộ kí tự kia là hiragana, katakana, bảng chữ cái La Tinh (rōmaji), và chữ số Ả-rập.

Bài này tập trung nói về cách dùng chữ Hán trong tiếng Nhật.

Mục lục
1 Lịch sử
2 Phân loại kanji theo lịch sử
2.1 Kokuji
2.2 Kokkun
2.3 Từ cũ và từ mới


Lịch sử
Có một số bất đồng về cách thức chữ Hán du nhập vào Nhật Bản, nhưng ý kiến được chấp nhận rộng rãi nhất là các tu sĩ Phật giáo đã mang các văn bản chữ Hán vào Nhật vào khoảng thế kỉ thứ 5. Các văn bản này được viết bằng chữ Hán vào và lúc đầu cũng được đọc bằng âm Hán. Tuy nhiên qua thời gian, hệ thống kanbun (漢文, Hán văn) xuất hiện - nó dùng văn bản chữ Hán với dấu thanh cho phép người Nhật đọc nó theo quy tắc ngữ pháp tiếng Nhật.

Lúc bấy giờ tiếng Nhật chưa có dạng chữ viết. Ngay cả hệ thống chữ viết man'yōgana (万葉仮名, vạn diệp giả danh, được dùng trong tuyển tập thơ cổ Man'yōshū) cũng dùng bộ chữ Hán với số kí tự hạn chế nhằm ký âm, chứ không nhằm diễn đạt ngữ nghĩa. Man'yōgana viết ở dạng đường cong trở thành hiragana (ひらがな, 平仮名, bình giả danh), một hệ thống chữ viết dành cho phụ nữ (không được phép tham gia vào nền giáo dục cao). Hầu hết văn chương của phụ nữ vào thời đại Heian được viết bằng hiragana. Song song đó, katakana (カタカナ, 片仮名, phiến giả danh) xuất hiện do được các tu sinh giản lược manyogana thành một thành tố đơn. Hiragana và katakana được gọi chung là kana.

Khi hệ thống chữ viết tiếng Nhật trưởng thành và mở rộng, kanji được dùng để viết một số phần trong câu, như danh từ, tính từ và động từ, còn hiragana được dùng để viết đuôi của động từ (okurigana), từ chỉ có ở tiếng Nhật và từ khó đọc hay nhớ bằng Kanji. Hiragana cũng được dùng trong sách dùng cho trẻ em và khi muốn giảm nhẹ mức độ của từ hoặc lời yêu cầu, thí dụ như từ kudasai (ください, xin vui lòng) và kodomo (子供, trẻ em). Ngược lại, vì có hình dạng góc cạnh, katakana được dùng để biểu thị từ tượng thanh, các âm thô và đột ngột, âm thanh của động vật và từ vay mượn của nước ngoài. Tuy nhiên cần lưu ý rằng việc dùng katakana để viết từ vay mượn chỉ xuất hiện sau này. Lúc đầu, các từ này được viết bằng kanji, dựa theo nghĩa (煙草 tabako, thuốc lá) hay theo phát âm (tempura 天婦羅 hay 天麩羅, tên một món ăn). Ngày nay thì ngược lại. Từ vay mượn, đặc biệt là gốc tiếng Anh, đang nhanh chóng thay thế cả những từ thường dùng có sẵn dạng tương đương trong tiếng Nhật thay vì được dùng để lấp khoảng trống từ vựng. Một giáo sư ngôn ngữ học ước tính đến 1/3 tiếng Nhật văn nói dùng từ vay mượn hay wasei-eigo, từ tiếng Anh được phát minh bởi người Nhật và từ kết hợp như パソコン pasokon (personal computer, máy tính cá nhân).

Phân loại kanji theo lịch sử

Kokuji
Trong khi một số từ kanji và Hán tự của người Hoa có thể đọc qua lại lẫn nhau, một số từ kanji lại không có Hán tự tương đương. Ngoài những từ được dùng với nghĩa khác, những từ có cùng nghĩa nhưng viết khác, cũng có những từ riêng của tiếng Nhật được gọi là kokuji (国字, quốc tự), còn được gọi là wasei kanji (和製漢字, Hán tự được chế ra tại Nhật). Có hàng trăm chữ kokuji (xem danh sách ở sci.lang.japan AFAQ), và mặc dù một số từ này ít được dùng, những từ còn lại đã góp phần quan trọng và ngôn ngữ viết tiếng Nhật. Chúng bao gồm:

峠 tōge (đỉnh đèo)
榊 sakaki (cây sakaki, giống Camellia)
畑 hatake (cánh đồng)
辻 tsuji (ngã tư đường)
働 dō, hatara(ku) (làm việc)

Kokkun
Kokkun (国訓, quốc huấn) là những chữ kanji có nghĩa trong tiếng Nhật khác với nghĩa nguyên thuỷ trong tiếng Hán. Thí dụ:

沖 oki (ngoài khơi; tiếng Hoa: chōng rửa)
椿 tsubaki (Camellia japonicus, cây hoa trà; tiếng Hoa: chūn cây Ailantus)

Từ cũ và từ mới
Một số chữ kanji có thể được viết theo 2 cách khác nhau 旧字体 (kyūjitai; cổ tự thể hay cách viết cũ) và 新字体 (shinjitai; tân tự thể hay cách viết mới). Dưới đây là một số thí dụ về kyūjitai theo sau bởi shinjitai:

國 国 kuni (quốc gia)
號 号 gō (số)
變 変 hen, ka(waru) (thay đổi)
Kyūjitai được dùng trước khi Đệ nhị thế chiến kết thúc; sau chiến tranh chính phủ Nhật đưa ra shin-jitai với lối viết đơn giản hoá. Một số chữ mới này tương tự với tiếng Hoa giản thể được dùng tại Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.

Cũng có những chữ Hán được dùng trong tiếng Nhật chỉ với mục đích phát âm (当て字 ateji). và nhiều chữ Hán không được dùng trong tiếng Nhật. Tuy nhiên, về mặt lí thuyết, bất cứ chữ Hán nào cũng có thể là chữ Nhật — Morohashi Daikanwa Jiten, từ điển kanji lớn nhất cho đến nay, có gần 50.000 mục từ, gồm cả những mục từ chưa từng được dùng trong tiếng Nhật.

 
 

 

Make a Free Website with Yola.